Vùng trũng phía bắc Tây Ban Nha chinh phục Guatemala

Cortés tại Petén

Hernán Cortés, người chinh phục Đế quốc Aztec, khám phá khắp Petén vào đầu thế kỷ 16.

Năm 1525, 4 năm sau sự sụp đổ của Đế quốc Aztec, Hernán Cortés dẫn đầu cuộc thám hiểm đến Honduras, băng qua vương quốc Itza ở khu vực ngày nay là khu hành chính Petén phía bắc Guatemala.[143] Ông đang trên đường đi trấn áp tên conquistador nổi loạn Cristóbal de Olid dám tuyên bố độc lập và cát cứ vùng Honduras.[144] Cortés mang theo 140 lính Tây Ban Nha gồm 93 kỵ binh, 3.000 chiến binh Mexico, 150 con ngựa, một đàn lợn, pháo, đạn dược và nhiều quân nhu khác. Ông cũng mang thêm 600 cửu vạn Chontal Maya từ Acalan. Họ đến bờ phía bắc hồ Petén Itzá vào ngày 13 tháng 3 năm 1525.[145]

Cortés nhận lời mời của Aj Kan Ekʼ, vua của Itza, đến thăm Nojpetén (còn được gọi là Tayasal), và tạt qua thành phố Maya với 20 binh sĩ Tây Ban Nha trong khi nhóm hậu quân đi quanh hồ để hội họp ở bờ nam.[146] Lúc rời Nojpetén, Cortés có để lại một cây thánh giá và một con ngựa què. Người Tây Ban Nha không giữ liên lạc với người Itza, chỉ khi các thầy dòng Phan Sinh đến đấy vào năm 1618 thì hai nước mới nối lại liên lạc. Sử sách chép rằng cây thập tự giá của Cortés vẫn đứng ở Nojpetén cho đến thời điểm đó.[143] Từ vùng ven hồ, Cortés tiếp tục nam tiến dọc sườn phía tây của dãy núi Maya, một hành trình rất gian khổ, họ phải mất 12 ngày trời để nhích được 32 km (20 dặm) và hai phần ba số ngựa kiệt sức mà chết. Gặp phải mưa to gió lớn ở khúc ghềnh, đoàn quân đành phải lên thượng nguồn Gracias a Dios để sang sông, mất thêm 2 ngày và mất rất nhiều ngựa.[147]

Vào ngày 15 tháng 4 năm 1525, đoàn thám hiểm đến ngôi làng Tenciz. Người dẫn đường bản địa giúp đỡ quân Tây Ban Nha tiến vào những ngọn đồi phía bắc hồ Izabal nhưng tới được đây thì dân bản địa bỏ mặc họ. Đoàn thám hiểm bị lạc và gần chết đói nhưng máy mắn bắt được một cậu bé Maya và tra hỏi nó để tìm lối thoát.[147] Cortés phát hiện một ngôi làng trên bờ hồ Izabal, có lẽ là Xocolo. Ông vượt sông Dulce đến khu định cư Nito, Vịnh Amatique,[148] cùng khoảng một tá người đồng hành và chờ đợi hậu quân bắt kịp trong suốt tuần tới.[147] Đến lúc này lực lượng thám hiểm chỉ còn vài trăm người; Cortés nhận được tin tình báo rằng Cristóbal de Olid đã bị hạ bệ và ám sát bởi chính sĩ quan của hắn.[149] Cortés với khoảng 40 người Tây Ban Nha và một số dân bản địa cho đóng một tàu brigantine kèm theo xuồng mộc và tiến lên thượng nguồn sông Dulce đến hồ Izabal. Lúc đầu, ông nghĩ là mình đã chèo ra tận Thái Bình Dương nhưng sớm nhận ra là không phải. Ở bờ tây của hồ, ông đưa quân binh lên đất liền và giao chiến với quân Maya tại thành phố Chacujal,[150] bên sông Polochic.[151] Ông thu giữ được nhiều lương thảo và gửi về các thuyền brigatine neo đậu tại Nito. Ông lên những chiếc bè chở lương thảo ngược dòng về Nito còn đa phần lực lượng của ông hành quân trở về bằng đường bộ.[152] Cortés sau đó quay về Mexico bằng đường biển.[149]

Vùng đất chiến tranh: Verapaz

Thầy dòng Anh Em Giảng Thuyết Bartolomé de las Casas lên án chế độ thực dân tại Guatemala và đề xướng sứ mệnh chinh phục hòa bình.

Đến năm 1537, khu vực ngay phía bắc thuộc địa Guatemala được gọi là Tierra de Guerra ("Vùng đất của Chiến tranh").[153][nb 9] Nghịch lý thay, vùng này còn có tên gọi là Verapaz ("Hòa bình thực sự").[154] Sở dĩ có cái tên vùng đất chiến tranh là do khu vực này vẫn đang trong quá trình chinh phục. Bởi khu vực này rậm rạp và um tùm rừng cây, người Tây Ban Nha không thể xâm nhập vào sâu trong nội địa được. Sau các công cuộc thành lập khu định cư ở xứ này, cư dân bản địa sẽ được di chuyển và tập trung tại các khu định cư mới gần bìa rừng, nơi người Tây Ban Nha dễ dàng kiểm soát họ hơn. Chiến lược này dẫn đến việc vùng rừng dần dần bị suy giảm dân số, đồng thời biến nó thành nơi trú ẩn hoang dã cho những kẻ bị lưu đày bởi chính quyền Tây Ban Nha.[155] Vùng đất Chiến tranh từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18, bao gồm một khu vực rộng lớn từ Sacapulas phía tây đến di chỉ Nito trên bờ biển Caribe và về phía bắc từ Rabinal và Salamá.[156] Đây là một khu vực trung gian giữa vùng cao nguyên và vùng đất thấp phía bắc,[157] tương ứng với các khu hành chính hiện đại là Baja Verapaz và Alta Verapaz, Izabal và Petén, cũng như phần phía đông của El Quiché và một phần bang Chiapas của Mexico.[158] Phần phía tây khu vực này là lãnh thổ của người Qʼeqchiʼ Maya. [159]

Pedro Orozco,[nb 10] lãnh tụ của người Sacatepéquez Mam thuộc khu hành chính San Marcos, sẵn sàng giúp đỡ các thầy Dòng Anh Em Giảng Thuyết trong sứ mệnh bình định cư dân vùng Verapaz. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1543, vua Karl V của Thánh chế La Mã ban chiếu miễn trừ encomienda cho dân Mam vùng Sacatepéquez.[160]

Thầy Dòng Anh Em Giảng Thuyết Bartolomé de las Casas tới thuộc địa Guatemala năm 1537 và khi chứng kiến sự khổ sở của dân bản địa, ông đã lên án gay gắt cuộc chinh phục khát máu này và đề xướng thay thế nó bằng các sứ mệnh truyền giáo ôn hòa.[161] Las Casas đề nghị cuộc chinh phục Vùng đất Chiến tranh được thực hiện thông qua việc rao giảng đức tin Công giáo.[162] Các thầy Dòng Anh Em Giảng Thuyết ủng hộ cái tên Verapaz thay vì Tierra de Guerra.[154] Do không thể chinh phục vùng đất này bằng sức mạnh quân sự, thống đốc Guatemala là Alonso de Maldonado đã đồng ý ký kết hiệp ước với Las Casas sẽ dừng tay và áp dụng phương pháp của Las Casas nếu nó tỏ ra thành công. Las Casas và một nhóm thầy dòng tự thành lập cơ sở ở Rabinal, Sacapulas và Cobán, thành công cải đạo một số lãnh chúa bản xứ bằng cách lan truyền các bài hát Cơ đốc giáo cho các thương nhân Anh-điêng lai vãng ở khu vực này.

ta có thể viết cả một cuốn sách ... kể về những tội ác, sự man rợ, sự giết chóc, sự di dân, sự tàn phá và những thứ phi nghĩa bẩn thỉu khác gây ra ... bởi những kẻ tới vùng đất Guatemala này

Bartolomé de las Casas[163]

Bằng cách này, họ đã tập hợp một nhóm người da đỏ theo đạo Thiên chúa tại nơi ngày nay là thị trấn Rabinal.[164] Sự thành công của Las Casas đã khiến Hoàng gia Tây Ban Nha ban hành Tân Luật vào năm 1542, nhằm hạn chế và kiểm soát quyền hạn của conquistador và thực dân đối với cư dân bản địa của châu Mỹ.[153] Kết quả là, dòng Anh Em Giảng Thuyết bị tẩy chay bởi thực dân Tây Ban Nha, những kẻ nghĩ rằng lợi ích của chúng đang bị đe dọa bởi bộ luật này; điều này gây khó khăn cho các thầy dòng tiếp tục chiến lược hòa bình của họ.[154]

Năm 1543, khu thuộc địa reducción Santo Domingo de Cobán được thành lập tại Chi Monʼa để chứa người Qʼeqchiʼ bị di dời khỏi Chichen, Xucaneb và Al Run Tax Aj. Santo Tomás Apóstol được thành lập gần đó cùng nằm tại Chi Nim Xol, khu này được dùng để tái định cư các cộng đồng Chʼol từ Topiltepeque và Lacandon trong Thung lũng Usumacinta vào năm 1560.[165] Năm 1555, Acala Chʼol và các đồng minh Lacandon của họ giết chết Thầy dòng Domingo de Vico của Tây Ban Nha.[166] De Vico thành lập một nhà thờ nhỏ ở vùng San Marcos,[167] nằm giữa lãnh thổ của Lacandon và Manche Chʼol (một khu vực không liên quan đến địa phận San Marcos).[168] De Vico xúc phạm lãnh chúa của người địa phương, liên tục quát tháo ông ta vì vẫn giữ tục đa thê.[167] Vị chúa phẫn nỗ bắn một mũi tên xuyên thủng cổ họng vị thầy dòng; sau đó, dân bản địa uất ức người Tây Ban Nha bắt giữ De Vico, mổ ngực và moi tim ông ta.[169] Thi hài của ông sau đó bị chặt đầu;[169] chính quyền Tây Ban Nha sau này không tìm lại được cái đầu đó.[170] Juan Matalbatz, một thủ lĩnh Qʼeqchiʼ từ Chamelco, phát động chiến dịch trừng phạt; những người da đỏ độc lập bị quân của Qʼeqchiʼ bắt đưa trở lại Cobán và tái định cư ở Santo Tomás Apóstol.[171]

Hồ Izabal và hạ lưu sông Motagua

Gil González Dávila khởi hành từ đảo Hispaniola vào đầu năm 1524,[172] với ý định khám phá bờ biển Ca-ri-bê của Nicaragua. Ông đổ bộ thành công lên bờ phía bắc của Honduras.[173] Sau khi thành lập Puerto de Caballos, Gil Gónzalez giong buồm về phía tây dọc theo bờ biển đến Vịnh Amatique và thành lập một khu định cư Tây Ban Nha ở đâu đó gần sông Dulce, thuộc Guatemala ngày nay, mà ông đặt tên là San Gil de Buena Vista.[173] Ông phát động một chiến dịch chinh phục vùng núi chia cắt Honduras và Guatemala.[174] González để lại một phần quân đội cho Francisco Riquelme tại San Gil de Buena Vista,[175] rồi đi thuyền ngược về Honduras. Những người dân thuộc địa ở San Gil thấy rằng địa điểm này bất lợi liền bắt đầu tìm kiếm một nơi khả quan hơn. Họ di cư tới thị trấn bản địa Nito, gần cửa sông Dulce.[173] Họ tuyệt vọng và gần như chết đói nhưng may mắn gặp phải Cortés đang tiến đến Honduras, và cùng tham gia vào chuyến hành trình của ông ta.[150]

Dòng Anh Em Giảng Thuyết thành lập trụ sở tại Xocolo bên bờ Hồ Izabal vào giữa thế kỷ 16. Trong giới truyền giáo, Xocolo trở nên khét tiếng với các thứ tà thuật được người bản địa thực hành. Đến năm 1574, nó trở thành đại bản doanh cho các cuộc thám hiểm châu Âu vào nội địa, và vẫn giữ vai trò đó cho đến cuối năm 1630, rồi bị bỏ hoang vào năm 1631.[176]

Năm 1598, Alfonso Criado de Castilla trở thành thống đốc của Đô đốc phủ Guatemala. Do Puerto de Caballos ở Honduras quá nghèo nàn và liên tục bị hải tặc cướp bóc, Alfonso đã cử một tay lái thuyền đến do thám Hồ Izabal.[176] Từ kết quả của cuộc khảo sát, và sau khi được sự cho phép của hoàng gia, Criado de Castilla ra lệnh cho khởi công một cảng mới, đặt tên là Santo Tomás de Castilla, tại một vị trí thuận lợi trên Vịnh Amatique không quá xa hồ. Sau đó, ông cho xây dựng một đường mòn từ khu cảng đến thủ phủ Antigua Guatemala hiện đại, men theo Thung lũng Motagua vào vùng cao nguyên. Thổ dân dò đường cho Tây Ban Nha không dám tiến sâu hơn 3 league vào Quiriguá, vì khu vực này là địa bàn cư trú của người Toquegua thù địch.[177]

Pháo đài Castillo de San Felipe của Tây Ban Nha trấn giữ lối vào Hồ Izabal.

Các lãnh đạo của Xocolo và Amatique thuyết phục cộng đồng gồm 190 người Toquegua di chuyển lên bờ biển Amatique vào tháng 4 năm 1604. Khu định cư mới ngay lập tức bị sụt giảm dân số. Mặc dù người Toquegua vùng Amatique được báo cáo là đã tuyệt diệt trước năm 1613 trong một số nguồn, các thầy Dòng Mercedarian vẫn rao giảng truyền giáo cho họ vào năm 1625.[178] Năm 1628, các thị trấn của người Manche Chʼol được đặt dưới sự quản lý của thống đốc vùng Verapaz, với Francisco Morán là người đứng đầu giáo hội. Morán ủng hộ phương pháp mạnh tay hơn để cải tổ người Manche và đưa binh lính Tây Ban Nha vào khu vực để chống lại các cuộc đột kích của người Itza từ phía bắc. Sự hiện diện của quân đội Tây Ban Nha kích động người Manche nổi dậy và từ bỏ các khu định cư cũ.[179] Đến năm 1699, người Toquegua láng giềng bị đồng hóa hoàn toàn bởi tỉ lệ tử vòng cao và các cuộc hôn nhân trộn lẫn với người Amatique.[178] Vào khoảng thời gian này, người Tây Ban Nha quyết định thành lập các reducion cho người Mopan Maya độc lập (gọi là "hoang dã" theo quan điểm của Tây Ban Nha) sống ở phía bắc của Hồ Izabal.[180] Bờ bắc của hồ, mặc dù màu mỡ nhưng lúc bấy giờ thì dân số đã sụt giảm quá nhiều, do đó người Tây Ban Nha quyết định đưa người Mopan ra khỏi các khu rừng phía bắc, chuyển tới các khu vực có thể dễ dàng kiểm soát hơn.[181]

Trong chiến dịch chinh phục người Itza của Petén, người Tây Ban Nha đã cử các đoàn thám hiểm đến quấy rối và di dời người Mopan phía bắc Hồ Izabal và người Chʼol Maya của vùng rừng Amatique phía đông. Họ đã được tái định cư tại reducciones San Antonio de las Bodegas tại bờ nam của hồ và San Pedro de Amatique. Vào nửa sau của thế kỷ 18, dân cư bản địa của những thị trấn này tuyệt chủng; các cư dân địa phương lúc này hoàn toàn mang gốc Tây Ban Nha, gốc mulatto hoặc mestizo, hầu hết đều là nhiều hộ gia đình từ pháo đài Castillo de San Felipe de Lara canh giữ lối vào Hồ Izabal.[181] Nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm dân số nghiêm trọng của hồ Izabal và đồng bằng sông Motagua là do các cuộc tấn công bắt nô lệ của người Miskito ở bờ biển Caribe, kết liễu dân số Maya trong khu vực.[182]

Chinh phục vùng Petén

Từ năm 1527 trở đi, người Tây Ban Nha bắt đầu khai khẩn vùng Yucatán và thành lập nhiều thị trấn thuộc địa ở Bán đảo Yucatán vào năm 1544, bao gồm Campeche, CampecheValladolid, Yucatan ở Mexico hiện nay.[183] Người Tây Ban Nha xâm lược vùng bắc Maya, lan truyền dịch bệnh và nô dịch hơn 50.000 người Maya, khiến dân Maya phải tản cư xuống phía nam ở Itza quanh Hồ Petén Itzá.[184] Người Tây Ban Nha nhận thấy rằng vương quốc Itza Maya đã trở thành tâm điểm của cuộc kháng chiến chống Tây Ban Nha. Do vậy, chính quyền thực dân thông qua chính sách phong tỏa và cắt các tuyến đường thương mại của người Itza trong suốt gần hai trăm năm. Người Itza bắt đầu chiêu mộ các nước láng giềng, lập đồng minh để chống lại cuộc xâm lấn chậm chạp của Tây Ban Nha.[185]

Các nhà truyền giáo dòng Anh Em Giảng Thuyết thường hoạt động ở vùng Verapaz và miền nam Petén từ cuối thế kỷ 16 đến thế kỷ 17, nỗ lực cải đạo hòa bình người bản địa nhưng không thành công. Vào thế kỷ 17, các thầy dòng Phan Sinh cho rằng việc bình định và cải đạo Cơ đốc người Maya sẽ không thể thực hiện được chừng nào người Itza còn chiếm cứ Hồ Petén Itzá. Người Maya trốn chạy khỏi các lãnh thổ encomienda mà Tây Ban Nha nắm giữ để tìm nơi tị nạn ở Itza.[185] Giáo sĩ Bartolomé de Fuensalida đến thăm thành Nojpetén vào năm 1618 và 1619.[186] Các nhà truyền giáo dòng Phan Sinh xuyên tạc lời tiên tri kʼatun của người Maya khi họ đến thăm Nojpetén, nhằm thuyết phục Aj Kan Ekʼ và các thầy tư tế của ông rằng thời điểm cải đạo đã đến.[187] Các thầy tư tế Itza phẫn nộ và cho xử tử toán giáo sĩ, nhưng họ may mắn thoát chết. Năm 1695, chính quyền thuộc địa quyết định sáp nhập Guatemala với Yucatán và binh lính của Guatemala được cử đi chinh phục một số khu định cư của người Chʼol, quan trọng nhất là Sakbʼajlan bên sông Lacantún ở phía đông Chiapas, nay thuộc Mexico, được đổi tên thành Nuestra Señora de Dolores, hoặc Dolores del Lakandon. Vị thầy dòng Phan Sinh Andrés de Avendaño dẫn đầu nỗ lực thứ hai để thuyết phục người Itza vào năm 1695, khuyên vua Itza rằng Kʼatun 8 Ajaw (một chu kỳ lịch Maya kéo dài hai mươi năm bắt đầu vào năm 1696 hoặc 1697) là thời điểm chín muồi để người Itza chấp nhận Cơ đốc giáo và quy hàng vua Tây Ban Nha. Tuy nhiên người Itza vẫn không chịu cải đạo và vào năm 1696, Avendaño may mắn trốn thoát toàn mạng. Sự phản kháng của Itza đã trở thành một nỗi nhục nhã đối với chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha và quân lính từ Campeche được điều động để đánh chiếm Nojpetén một lần và mãi mãi.[188]

Nojpetén thất thủ

Thủ đô Nojpetén của vương quốc Itza Maya, hiện đã bị thay thế bởi thị trấn Flores

Martín de Ursúa y Arizmendi dẫn quân đến bờ tây hồ Petén Itzá vào tháng 2 năm 1697, và cho đóng một chiến thuyền galeota để công thành.[189] Trận vây hãm đẫm máu thủ đô vương quốc Itza diễn ra vào ngày 13 tháng 3 năm 1697.[190] Đợt pháo kích của Tây Ban Nha giết rất nhiều người trên đảo; dân Itza Maya hoảng loạn nhảy xuống hồ để cố bơi lên bờ nhưng hầu hết đều chết đuối.[189] Sau trận chiến, những kẻ sống sót bỏ thành và tẩu thoát vào rừng cây.[188] Các vị vua Itza và Kowoj (Ajaw Kan Ekʼ và Aj Kowoj) cùng nhiều quý tộc Maya và gia đình họ bị bắt. Sau cuộc chinh phục Nojpetén, Ursúa trở lại Campeche; ông có để lại một đội đồn trú nhỏ trên đảo do vùng đất liền vẫn được thống trị bởi người Itza và Kowoj thù địch. Thành Nojpetén được người Tây Ban Nha đổi tên thành Nuestra Señora de los Remedios y San Pablo, Laguna del Itza ("Đức Mẹ Cứu chữa và Thánh Paul, Hồ Itza"). Các đơn vị đồn trú được tiếp viện vào năm 1699 bởi một đoàn thám hiểm quân sự từ Guatemala, cùng với dân ladino đến thành lập thị trấn của riêng họ xung quanh đồn quân sự. Những người định cư đã mang theo dịch bệnh, khiến nhiều binh lính và người thực dân thiệt mạng rồi lây nhiễm qua các dân cư bản địa. Những người Guatemala chỉ ở lại đây 3 tháng rồi quay trở lại Santiago de los Caballeros de Guatemala, mang theo vị vua Itza vẫn bị giam cầm cùng với con trai và hai anh em họ của ông. Hai anh em của vị vua chết trên đường về thủ phủ của thuộc địa; Ajaw Kan Ekʼ và con trai của ông bị giam lỏng và sống phần đời còn lại tại đây.[189]

Những năm cuối

Vào cuối thế kỷ 17, cộng đồng người Chʼol Maya ở miền nam Petén và Belize bị cưỡng chế di dời đến Alta Verapaz, nơi họ bị đồng hóa vào cộng đồng Qʼeqchiʼ. Những người Chʼol của Rừng Lacandon được tái định cư ở Huehuetenango vào đầu thế kỷ 18.[191] Các linh mục Công giáo từ Yucatán thành lập một số thị trấn truyền giáo xung quanh Hồ Petén Itzá vào năm 1702–1703. Những người Itza và Kowoj còn sống bị bắt di dời tới các thị trấn thuộc địa mới thông qua cả sự thuyết phục lẫn vũ lực. Các lãnh tụ Kowoj và Itza nổi dậy chống lại các lãnh chúa Tây Ban Nha vào năm 1704, mặc dù có sự tổ chức tốt, cuộc nổi dậy nhanh chóng bị dẹp tan. Những kẻ nổi loạn bị hành quyết và hầu hết các thị trấn truyền giáo bị bỏ hoang. Đến năm 1708, chỉ còn khoảng 6.000 người Maya sống ở trung tâm Petén so với con số gấp chục lần vào năm 1697.[189] Bệnh tật tuy là nguyên nhân chính gây ra sự sụt giảm dân số, các cuộc thám hiểm của Tây Ban Nha và chiến tranh giữa các nhóm bản địa cũng đã góp phần làm trầm trọng thêm cuộc suy thoái này.[192]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tây Ban Nha chinh phục Guatemala http://asociaciontikal.com/pdf/04_-_Caso.06_-_www.... http://www.asociaciontikal.com/pdf/90_-_Yvonne_y_S... http://www.inforpressca.com/sanmateoi/historia.php http://www.uni-hamburg.de/mesoamerikanistik/eike_h... http://opensiuc.lib.siu.edu/theses/136/ http://lanic.utexas.edu/project/etext/llilas/clasp... //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/11614191 http://www.tesis.ufm.edu.gt/pdf/2013.pdf http://biblioteca.usac.edu.gt/EPS/07/07_1606.pdf http://biblioteca.usac.edu.gt/tesis/14/14_0282.pdf